Tùy vào mức độ nguy hiểm và hậu quả của hành vi, người nào bạo hành trẻ em sẽ phải chịu trách nhiệm hành chính hoặc có thể bị xử lý hình sự, cụ thể:
Về chế tài hành chính, căn cứ Khoản 2 Điều 27 Nghị định 144/2013/NĐ-CP, phạt tiền từ 5.000.000 đến 10.000.000 đối với các hành vi xâm phạm quyền trẻ em như:
|
Ngoài ra, nếu mức độ nguy hiểm của hành vi là đặc biệt nghiêm trọng, gây hậu quả nặng nề đối với trẻ em thì người thực hiện hành vi sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo một trong hai tội danh: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 134) và Tội hành hạ người khác (Điều 140). Mức phạt cụ thể như sau:
Điều 134. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
|
Điều 140. Tội hành hạ người khác 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm: a) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ; |
Như vậy, so với Bộ luật Hình sự 1999, Bộ luật Hình sự 2015 đã thay thế từ “trẻ em” bằng cụm từ “người dưới 16 tuổi”, quy định này nhằm cụ thể và xác định rõ hơn độ tuổi của người bị thiệt hại. Theo đó, trẻ em được xem là đối tượng dưới 16 tuổi, và những người thực hiện hành vi ngược đãi, bạo hành trẻ em có thể phải chịu mức án cao nhất là tù chung thân theo quy định tại Điều 134 BLHS 2015 nếu gây thương tích cho 2 trẻ trở lên, với tỷ lệ tổn thương mỗi trẻ là trên 61%.
>> XEM BẢN TIẾNG ANH CỦA BÀI VIẾT NÀY TẠI ĐÂY