Thứ nhất, về nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi (Điều 4).
- Khi giải quyết việc nuôi con nuôi cần tôn trọng quyền của trẻ em được sống trong môi trường gia đình gốc.
Gia đình nơi trẻ em sinh ra được coi là môi trường lý tưởng nhất cho sự phát triển của trẻ em. Do còn non nớt về thể chất và trí tuệ, nên trẻ em cần được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt trong bầu không khí yêu thương, hạnh phúc và cảm thông của những thành viên trong gia đình.
- Việc nuôi con nuôi phải bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người được nhận làm con nuôi và người nhận con nuôi, tự nguyện, bình đẳng, không phân biệt nam nữ, không trái pháp luật và đạo đức xã hội
Trong quá trình nuôi con nuôi, lợi ích của trẻ em phải được tính đến trước tiên trong mối tương quan với lợi ích của cha mẹ nuôi. Việc nuôi con nuôi phải được thực hiện trên tinh thần tự nguyện của các bên liên quan, không phân biệt giữa người nhận con nuôi là nam hay nữ, đơn thân hay đã kết hôn; đồng thời không phân biệt giữa con nuôi là trai hay gái.
- Chỉ cho làm con người nước ngoài khi không thể tìm được gia đình thay thế ở trong nước
Đây cũng là nguyên tắc được thừa nhận trong các văn kiện pháp lý quốc tế. Nếu việc nuôi dưỡng trong phạm vi gia đình không thể thực hiện được thì phải tính đến các biện pháp chăm sóc thay thế ở trong nước, trong đó có việc nuôi con nuôi.
Chỉ sau khi đã xem xét thoả đáng các giải pháp trong nước mà vẫn không tìm được máu ấm gia đình cho trẻ thì mới tính đến việc cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài, và việc đó phải vì lợi ích tốt nhất của trẻ em.
Thứ hai, về biện pháp bảo đảm việc nuôi con nuôi trong nước. Luật Nuôi con nuôi (Điều 15) đưa ra quy định về việc tìm gia đình thay thế trong nước, nhằm bảo đảm trẻ em có cơ hội được nhận làm con nuôi trong nước.
Việc tìm mái ấm được thực hiện ở ba cấp: xã, tỉnh và trung ương. Ở cấp xã, việc tìm gia đình thay thế được thực hiện bằng cách niêm yết tại trụ sở Uỷ ban nhân dân trong thời hạn 60 ngày; ở cấp tỉnh, được thực hiện bằng cách thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng của tỉnh trong thời hạn 60 ngày; ở Trung ương được thực hiện bằng việc đăng trên cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp. Nếu hết thời hạn này mà không có người trong nước nhận làm con nuôi, thì trẻ em mới được giới thiệu làm con nuôi người nước ngoài.
Ngoài ra, Điều 36 của Luật còn quy định, nếu hết thời hạn nêu trên, trẻ em đang được xem xét để giới thiệu cho làm con nuôi người nước ngoài nhưng Sở Tư pháp chưa giới thiệu cho người xin con nuôi cụ thể nào đó, mà có người trong nước nhận trẻ em làm con nuôi thì vẫn được xem xét giải quyết.
Như vậy, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được tạo cơ hội đến mức tối đa để tìm được mái ấm gia đình thay thế. Luật còn quy định công dân trong nước có nhu cầu và nguyện vọng nhận trẻ em làm con nuôi mà chưa xác định được trẻ em cần nhận làm con nuôi, thì có thể đăng ký nhu cầu với Sở Tư pháp nơi thường trú (Điều 16), nếu có trẻ em để giới thiệu thì Sở Tư pháp giới thiệu người đó đến Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi thường trú để xem xét giải quyết.
Thứ ba, Luật quy định điều kiện của người được nhận làm con nuôi trong nước và nước ngoài là như nhau, đồng thời nâng độ tuổi của trẻ em được cho làm con nuôi từ 15 tuổi (theo pháp luật hiện hành) đến dưới 16 tuổi (Điều 8). Đặc biệt, người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi cũng có thể được cho làm con nuôi của cha dượng, mẹ kế, cô, cậu dì, chú bác ruột.
- Bảo đảm quyền được biết về nguồn gốc của trẻ em (Điều 10)
Đây là một điểm mới của luật so với các quy định hiện hành về nuôi con nuôi. Quy định này nhằm khẳng định và bảo vệ quyền được biết về nguồn gốc của mình của trẻ em được cho làm con nuôi, nêu rõ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức và các cá nhân có liên quan trong quan hệ nuôi con nuôi trong việc đảm bảo quyền được biết về nguồn gốc của trẻ em khi các em đến tuổi trưởng thành và có yêu cầu.
Thứ tư, Luật (Điều 12) quy định người nhận con nuôi phải nộp lệ phí đăng ký nuôi con nuôi, người nước ngoài không thường trú ở Việt Nam nhận con nuôi ở Việt Nam phải trả một khoản tiền bù đắp một phần chi phí cho việc giải quyết nuôi con nuôi nước ngoài, bao gồm chi phí nuôi dưỡng, chăm sóc trẻ em từ khi được giới thiệu làm con nuôi đến khi hoàn thành thủ tục giao nhận con nuôi, xác minh nguồn gốc của người được giới thiệu làm con nuôi, giao nhận con nuôi và thù lao hợp lý cho nhân viên của cơ sở nuôi dưỡng.
Thứ năm, đổi mới cách thức giới thiệu trẻ em làm con nuôi người nước ngoài. Thực tế hiện nay, việc giới thiệu trẻ em làm con nuôi là do các cơ sở nuôi dưỡng trẻ em thực hiện, nay Luật Nuôi con nuôi (Điều 36) quy định việc giới thiệu trẻ em làm con nuôi người nước ngoài thuộc thẩm quyền của Sở Tư pháp.
Thứ sáu, về việc cho phép đăng ký đối với nuôi con nuôi thực tế. Để bảo vệ quyền lợi của các bên trong quan hệ nuôi con nuôi, Luật (Điều 50) quy định việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau mà chưa đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền trước ngày Luật này có hiệu lực (ngày 01/01/2011) thì sẽ được đăng ký trong thời hạn 05 năm nếu các bên có đủ điều kiện về nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật tại thời điểm phát sinh quan hệ nuôi con nuôi; đến thời điểm Luật có hiệu lực mà quan hệ cha mẹ và con vẫn đang tồn tại và cả hai bên còn sống; giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục nhau như cha mẹ và con.
Việc nuôi con nuôi không đăng ký kể từ ngày Luật mới có hiệu lực sẽ không được công nhận giá trị pháp lý.
Thứ bảy, Luật quy định rõ ràng, minh bạch các điều kiện cấp phép hoạt động cho các tổ chức con nuôi nước ngoài tại Việt Nam. Theo quy định hiện hành: phải đủ 2 điều kiện có trụ sở và dự án hỗ trợ nhân đạo thì mới cho phép tổ chức con nuôi nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Nay Luật Nuôi con nuôi quy định khi có các điều kiện như: hoạt động hợp pháp, được cơ quan có thẩm quyền cho phép hoạt động, có thời gian hoạt động trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế liên tực từ 3 năm trở lên, có đội ngũ nhân viên hiểu biết về pháp luật, đủ tiêu chuẩn đạo đức, chuyên môn... sẽ được xem xét để cấp giấy phép cho các tổ chức nuôi con nuôi nước ngoài hoạt động tại Việt Nam.
Luật có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2011.
Nguồn: Liễu Lập - Sở Tư pháp tỉnh Thái Bình
>> XEM BẢN TIẾNG ANH CỦA BÀI VIẾT NÀY TẠI ĐÂY